Thức ăn và biện pháp giải quyết thức ăn cho dê

Các loại thức ăn

Nhóm 1 : Thức ăn thô

Chủ yếu cung cấp năng lượng, là yếu tố bảo đảm cho dạ cỏ hoạt động hoạt động bình thường. Bao gồm :

  • Thức ăn thô xanh: cỏ mọc tự nhiên, thân cây ngô, dây lang, mía, lá sắn, các loại lá cây ăn quả như mít, chuối… và lá một số loại cây chứa nhiều độc tố, cay, đắng như lá xoan, lá xà cừ, lá chàm tai tượng…
  • Thức ăn thô khô : cỏ khô, rơm lúa…
  • Thức ăn củ quả : sắn, khoai lang, củ cải, bầu bí

 

Nhóm 2 : Thức ăn tinh

  • Loại cung cấp năng lượng : các loại hạt ngũ cốc, các loại củ phơi khô (khoai, sắn), bột ngô, cám, gạo…
  • Loại cung cấp đạm : bột đậu tương, khô dầu đậu tương, bột cá, bột máu…

Nhóm 3 : Thức ăn bổ sung

  • Thức ăn bổ sung khoáng : bột xương, bột sò, bột cacbonat canxi.
  • Thức ăn bổ sung đảm : urê.

Một số lưu ý khi sử dụng thức ăn:

  • Phải bảo đảm trong thức ăn có cả loại giàu năng lượng và cả loại giàu đạm.
  • Không thay đổi thức ăn đột ngột, nhất là thức ăn đột ngột, nhất là thức ăn tinh mà phải có giai đoạn chuyển tiếp kéo dài 4 – 5 ngày và sau đó tăng dần lên.
  • Cần rửa cỏ tự nhiên và phơi tái trước khi cho dê ăn, không cho dê ăn thức ăn ướt, dính nước mưa, dính bùn đất.
  • Thức ăn thô xanh cồng kềnh nên cắt ngắn. Thức ăn củ quả nên cắt thành miếng mỏng nhưng cũng không nên nghiền nát hoặc thái quá nhỏ.
  • Không cho ăn mỗi ngày quá 0,5 kg rỉ mật.
  • Với urê : chỉ sử dêụng cho dê trưởng thành, khong hòa vào nước cho uống, tuân thủ tỷ lệ phối trộn urê với các loại thức ăn.
  • Cần phải treo máng ăn cách mặt đất 0,2 – 0,5 m. Máng ăn phải đủ dài, bảo đảm tất cả dê có thể ăn cùng một lúc và không rơi vãi.

Cách trồng một số cây thức ăn để nuôi dê

Cỏ voi

Cỏ voi có thân đứng có thể cao tới 4 – 6m, có nhiều đốt, rậm lá, sinh trưởng nhanh. Cỏ voi có yêu cầu về đất tương đối khắt khe : ưa đất màu, giàu dinh dưỡng và thoáng, có tầng canh tác sâu, không ưa đất cát và không chịu được ngập úng nhưng chịu được khô hạn. Tuy nhiên, nếu hạn hán kéo dài hoặc vào mùa đông, khi nhiệt độ xuống thấp và đặc biệt khi có sương muối, quá trình sinh trưởng bị chậm lại. Cỏ voi có năng suất chất xanh rất cao. Tùy theo trình độ thâm canh, năng suất trên một hecta có thể biến động từ 100 tấn đến 400 tấn/ năm.

Kỹ thuật trồng

  • Thời gian trồng : thích hợp là từ tháng 2 – 5, thu hoạch từ tháng 6 -11. Chu kỳ kinh tế của cỏ voi là 3 – 4 năm. Nếu chăm sóc tốt có thẻ cho năng suất cao trong 10 năm liền.
  • Chuẩn bị đất : Cần chọn loại đất với yêu cầu của cây : loại đất có tầng canh tác trên 30cm, nhiều màu, tơi xốp, thoát nước, có độ ẩm trung bình đến hơi khô.

    Cần cầy sâu, bừa kỹ hai lượt và làm sạch cỏ dại, đồng thời san phẳng đất. Rạch hàng sâu 15 – 20 cm theo hướng đông – tây, hàng cách hàng 60 cm. Cũng có thể trồng theo khóm với mật độ bui nọ cách bụi kia 40 cm và hàng cách hàng 60cm.

  • Phân bón: Tùy theo chân ruộng tốt hay xấu mà có thể sử dụng lượng phân bón khác nhau.Trung bình cho 1 hecta cần bón :

    15 – 20 tấn phân chuồng hoai mục

    300 – 400 kg đạm urê,

    250 – 300 kg super lân,

    150 – 200kg sun phát kali.

    Các loại phân hữu cơ, phân lân, phân ka li dùng bón lót toàn bộ theo lòng rãnh trồng cỏ. Riêng phân đạm thì chia đều cho các lần thu hoạch và bón thúc sau mỗi lần cắt. Nếu đất chua (pH < 5) thì phải bón thêm vôi.

  • Cách trồng và chăm sóc : Trồng bằng thân cây (hom), chọn cây mập và hom bánh tẻ ( ở độ tuổi 80 – 100 ngày). Chặt vát hom với độ dài 25 – 30cm/ hom và có 3 – 5 mắt mầm. Mỗi hecta cần 8 – 10 tấn hom.

Đặt hom trong lòng rãnh, chếch 450, cách nhau 30 – 40cm và lấp đất dày khoảng 10cm và bảo đảm mặt đất bầng phẳng sau khi lấp.

Sau khi trồng 10 – 15 ngày mầm bắt đầu mọc. Tiến hành kiểm tra tỷ lệ mọc mầm và nếu có hom chết, cần trồng dặm lại, đồng thời làm sạch cỏ dại và dùng cuốc xới xáo nhẹ cho đất tơi, thoáng ( chú ý không chạm vào thân cây giống). Lúc được 30 ngày tiến hành bón thúc bằng 100 kg urê. Dùng cuốc làm sạch cỏ dại thêm vài lần, trước khi cỏ lên cao phủ kín mặt đất.

Thu hoạch và sử dụng

Sau khi trồng 80 – 90 ngày thu hoạch đợt đầu ( không thu hoạch non đợt đầu). Khoảng cách những lần thu hoạch tiếp theo là 30 – 45 ngày, khi thảm cỏ có độ cao khoảng 80 -120 cm. Mỗi lần thu hoạch lưu ý cắt gốc ở độ cao 5 cm trên mặt đất để cho cỏ mọc lại đều. Cứ sau mỗi lần thu hoạch và cỏ ra lá mới lại tiến hành bón thúc bằng đạm urê.

Có thể dùng cỏ voi cho dê ăn tươi hoặc ủ chua để dự trữ cho những cho những thời điểm khan hiếm thức ăn thô xanh.

Cỏ Ghinê

Cỏ Ghinê còn gọi là cỏ sả, một số nơi còn gọi là cỏ Tây Nghệ An hay cỏ Sữa. Cỏ Ghinê là loại cây lâu năm, thân cao tới 2 – 3m, không có thân trâu bò, chi sinh nhánh và mọc thành bụi như bụi sả. Bẹ lá mọc quanh gốc, có màu tím, cả bẹ và lá đều có lông nhỏ và trắng.

Cỏ Ghinê có nhiều đặc tính quý : sinh trưởng mạnh, năng suất cao, khả năng chịu hạn, chịu nóng và chịu bóng cây tốt, dễ trồng. Cỏ Ghinê sống được trên nhiều loại đất khác nhau nhưng tốt nhất là loại đất phù sa và đất có nhiều màu. Chịu được đất mặn nhẹ, nhưng không chịu được đất ẩm kéo dài.

Do cỏ Ghinê có khả năng chịu được hạn và bóng râm nên có thể trồng xen với cây lầm nghiệp hoặc cây ăn quả, trồng ven bờ đê, ven đường, xung quanh ao cá, vừa phủ đất chống xói mòn và giữ ẩm, vừa tận thu chất xanh cho chăn nuôi dê rất tốt.

Kỹ thuật trồng

  • Thời gian trồng : từ tháng 2 – 4. Tốt nhất là trồng vào đầu mùa mưa để bảo đảm tỷ lệ sống cao. Thu hoạch từ tháng 5 – 11. Chu kì kinh tế 4 – 5 năm hoặc dài hơn ( 6 – 7 năm).
  • Chuẩn bị đất : Cỏ Ghinê phù hợp với chân ruộng cao, loại đất cát pha, không bị ngập nước hoặc ẩm nhiều. Cần cày vỡ đất ở độ sâu 20 cm, sau đó bừa và cày đào (cày 2 lần), làm sạch cỏ dại và san phẳng đất. Trong trường hợp trồng bằng hạt thì đất phải làm tơi nhỏ hơn.
  • Phân bón : Cho mỗi hecta cần:

    + 10 – 15 tấn phân chuồng hoại mục, bón lót toàn bộ theo hàng rạch,

    + 200 – 250 kg super lân, bón lót toàn bộ theo hàng rạch,

    + 150 – 200 kg sun phát kali, bón lót toàn bộ theo hàng rạch,

    + 200 – 300 kg sun phát đạm, chia đều để bón thúc sau mỗi lần thu hoạch.

Cách trồng và chăm sóc : Có thể trồng bằng hạt hoặc dùng khóm thân rễ, trồng theo bụi. Nếu trồng bằng khóm theo bụi thì sau khi làm đất kỹ như nêu trên, dùng cày rạch thành hàng cách nhau 40 – 50 cm, sâu 15 cm. Trong trường hợp gieo bằng hạt thì chỉ cần rạch hàng sâu 10 cm. Mỗi hecta cần lượng khóm 5 – 6 tấn, lượng hát 5 – 6 kg.

Sau khi rạch hàng và bón lót phân, tiến hành trồng bằng cách đặt các khom vào rãnh, ngả cùng một phái và vuông góc với thành rãnh, cách nhau 35 – 40 cm, lấp đất sâu khoảng 10 – 15 cm (1/2 độ dài của thân cây giống) và lưu ý dậm chặt đất, tạo điều kiện có độ ẩm, cây chóng nảy mầm và có tỷ lệ sống cao.

Nếu trồng bằng hạt thì gieo rải đều theo hàng rạch và dùng đất nhỏ mịn lấp dày 5cm.

Trong trường hợp trồng xen với cây ăn quả, trồng ven đường hoặc xung quanh bờ ao thì đào hốc sâu 15 cm, khoảng cách hàng 40 – 50 cm và hố nọ cách hộ kia 15 – 20 cm.

Sau khi trồng 15 – 20 ngày kiểm tra khả năng ra mầm chồi và nếu cần thiết thì trồng dặm lại. Đồng thời lúc này xới xáo qua, làm cỏ dại và bón thúc bằng đạm urê. Nếu gieo bằng hạt thì chỉ tiến hành chăm sóc và trồng tỉa bổ sung khi cây mọc và có thể phân biệt rõ để tránh nhầm lẫn với cỏ dại. Sau aii lần cắt và khi thảm cỏ nảy mầm xanh lại làm cỏ dại rồi dùng phân đạm bón thúc.

Thu hoạch và sử dụng

Sau khi trồng được 60 ngày thì thu hoạch lứa đầu, cắt phần trên cách mặt đất 10 cm. Các lứa thu hoạch sau cách nhau 40 – 45 ngày. Mỗi năm cắt dọn gốc già một lần. Cỏ Ghinê có giá trị dinh dưỡng cao, không bị giảm chất lượng nhanh như cỏ voi.

Cỏ Ruzi

Cỏ ruzi là giống cỏ lâu năm, thân bò và có thể cao tới 1m. Thân và lá có lông mịn. Rễ chum, phát triển mạnh và bám chắc vào đất. Cỏ Ruzi có khả năng chịu hạn tốt nhưng phát triển mạnh nhất vào mùa mưa. Có thể trồng loại cỏ này ở đồng bằng ( bờ ruộng, bờ đê…) hoặc ở trung du, miền núi với độ dốc không quá lớn ( < 15o).

Tùy theo điều kiện đất đai và khả năng chăm sóc, có thể thu hoạch cỏ Ruzi 5 – 7 lứa mỗi năm và năng suất chất xanh đạt được từ 60 – 90 tấn/ ha. Chu kỳ kinh tế hoảng 6 năm.

* Kỹ thuật trồng

  • Thời gian trồng múa mưa, nhưng tốt là vào đầu mùa mưa ( tháng 4 – tháng 5) để bảo đảm tỷ lệ sống cao và cây phát triển tốt.
  • Chuẩn bị đất :

    Yêu cầu chuẩn bị đất trồng cẩn thận, cày và bừa hai lần. Lần đầu cày vỡ với độ sâu 20 cm, rồi bừa vỡ. Lần thứ hai cầy đảo lại và bừa tơi đất, đồng thời vơ sạch cỏ dại và san phẳng đất. Nên kéo dài thời gian chuẩn bị đất nhằm hạn chế cỏ dại. Sauk hi đã san phẳng đất, tiến hành rãnh hàng cách nhau 40 – 50 cm ( nếu gieo bằng hạt).

  • Phân bón :

    Cần sử dụng cả phân vô cơ và phân hữu cơ. Mỗi hecta cần :

    + 10 – 15 tấn phân chuồng hoại mục,

    + 200 – 250 kg supe lân,

    + 100 – 200 kg sun phát kali

    + 300 – 350 kg đạm urê.

    Các loại phân chuồng, supe lân, sunphát kali dùng bón lót theo hàng trồng cỏ. Lượng đạm urê được chia đều cho các lần cắt cỏ và dùng để bón thúc sau khi cỏ đã đâm chồi và ra lá.

  • Cách trồng và chăm sóc :

    Có thể trồng bằng thân khóm hoặc trồng bằng hạt.

    Trường hợp trồng bằng thân khóm, cách chuẩn bị thân khóm như sau : Các khóm cỏ Ruzi dùng làm giống đực cắt xén bỏ phân lá cách mặt đất khoảng 25 – 30 cm. Dùng cuốc đánh cả khóm cỏ lên, rũ đất và phạt xén bớt rễ, chỉ để lại còn 4 – 5cm. Sau đó dùng dao chia tách thành những cụm cỏ nhỏ, mỗi cụm gồm 4 -5 thân nhánh.

Sau khi đã chuẩn bị đất và bón lót phân như nêu trên, đặt các khóm cỏ giống vuông góc với thành rạch, khóm nọ cách khóm kia 35 – 40 cm. Dùng cuốc lấp kín ½ thân cây giống, tiếp theo, dùng chân dậm thật chặt đất để tạo độ ẩm, bảo đảm cỏ chóng ra mầm và đạt tỷ lệ sống cao.

Mỗi hecta cần 4 – 6 tấn khóm.

Trường hợp trồng bằng hạt : cần xử lý hạt trước khi gieo bằng cách ngâm hạt ra, rửa sạch bằng nước lã và ngâm thêm khoảng 60 phút rồi vớt ra và đem gieo.

Gieo rải đều hạt theo hàng rạch. Dùng tay khỏa đều và lấp một lớp đất mỏng lên trên. Mỗi hecta cần 4 -5 kg hạt cỏ giống.

Sau khi trồng khoảng 2 – 3 tuần tiến hành kiểm tra tỷ lệ mọc mầm, những cây bị chết thì trồng dặm lại. Trong trường hợp gieo hạt, cần lưu ý phân biệt mầm cỏ Ruzi với mầm cỏ dại. Tiến hành trồng tỉa bổ sung vào nhưng nơi cỏ không nảy mầm. Xới xáo nhẹ cho đất tơi xốp và làm sạch cỏ dại. Khi thảm cỏ nảy mầm xanh và sau khi làm cỏ lần hai thì bón thúc bằng đạm urê.

*Thu hoạch và sử dụng

Thu hoạch lứa đầu sau khi trồng đuộc 60 ngày bằng cách cắt trên mặt đất 10 cm. Các lứa thu hoạch tiếp theo tiến hành khi thảm cỏ cao khoảng 45 – 60cm.

Cỏ Ruzi mềm và giòn hơn cỏ Ghinê nên gia súc cỏ khả năng lợi dụng rất tót. Ngoài việc sử dụng cho ăn tươi, có thể phơi khô và làm thức ăn dự trữ trong vụ đông xuân bởi vì khi phơi khô, cỏ khô đều và nhanh cả lá và cuộng.

Cây keo dậu

cây keo dậu

Keo dậu thuộc họ đậu, thân bụi hoặc thân gỗ lâu năm. Cây có thể cao tới 10m và rễ có thể đâm sâu tới 4m. Cây có thể sinh trưởng trên nhiều loại cây khác nhau nhưng thích hợp nhất là đất nhiều mùn, dễ thoát nước. Cây có khả năng chịu hạn rất tốt nhưng kém chịu lạnh và sương muối.

Năng suất chất xanh thay đổi tùy theo giống, điều kiện đất đai, khí hậu và điều kiện chăm sóc. Trung bình có thể đạt 40 – 45 tấn chất xanh/ ha/ năm.

Chu kỳ kinh tế trồng keo dậu 5 – 6 năm. Từ năm thứ hai sau khi trồng mỗi năm chỉ cần làm cỏ và bón phân một lần vào vụ xuân.

Kỹ thuật trồng

  • Thời gian trồng : tốt nhất vào tháng 4.
  • Chuẩn bị đất : Có thể trồng keo dậu ở ruộng tập trung, trên bờ bụi, bờ mương máng hoặc trong vườn, làm hàng rào. Cần chú ý chọn loại đất thoát nước, ít chua. Nếu trồng tại ruộng thì chỉ chuẩn bị đất như khi trồng các loại đậu đỗ khác. Sau khi cày bừa và làm đất, tiến hành lên luống rộng 3m, rạch các hàng trên luống cách nhau 70 -80 cm, sâu khoảng 10 cm.
  • Phân bón : Mỗi hecta cần:

+ 10 tấn phân chuông,

+ 300 kg phân lân nung chảy

+ 150 kg clorua kali

Các loại phân này dùng bón lót toàn bộ trước khi bừa lần cuối và mỗi năm bón một lần vào vụ xuân.

  • Cách trồng và chăm sóc : Trước khi gieo cần xử lý hạt như sau : làm ướt hạt bằng nước lã, sau đó đổ nước nóng 90 – 100oC vào và ngâm trong vòng 5 phút. Bước tiếp theo là gạn hết nước nóng và đổ nước lã vào cho ngập hạt, ngâm tiếp 5 – 10 giờ rồi lại gạn hết nước và để hạt khô ráo trước khi đem gieo.

Gieo hạt theo hàng rạch, trung bình 1m dài 20 hạt (lượng hạt khô cần cho một hecta khoảng 20 kg), lấp đất sâu khoảng 5cm.

Cũng có thể gieo vào bầu đất hoặc vườn ươm, sau đó, khi cây mọc cao khoảng 45 cm bứng đi trồng (trong trường hợp trồng làm hàng rào) như các loại cây gỗ khác, trồng cây cách cây 50cm.

Sau khi trồng khoảng 10 ngày, kiểm tra tỷ lệ nảy mầm, nếu cần thiết thì gieo hoặc trồng dậm lại. Dùng cuốc xới xáo nhẹ theo hàng và làm sạch cỏ dại hai đợt : lúc 15 ngày và lúc 40 ngày sau khi trồng.

*Thu hoạch và sử dụng

Sau khi trồng khoảng 4 – 5 tháng, có thể thu hoạch lứa đầu ( tùy theo đất đai và điều kiện chăm sóc, lúc đó cây có thể cao tới 1,5m). Khi thu hoạch lứa đầu, cắt gốc cách mặt đất 70 cm. Các lứa tiếp theo cắt chừa lại cành mới tái sinh 5cm và cứ sau khoảng 45 ngày cắt một lần. Có thể sử dụng keo dậu như nguồn thức ăn tươi xanh. Cũng có thể phơi sấy khô, nghiền thành bột.

Keo dậu là cây có hàm lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt là protein. Tuy nhiên, keo dậu có hạn chế là chứa một lượng nhỏ độc tố mimosine ( thường tập trung trong các phần non của cây như lá, chồi non). Vì vậy khi sử dụng keo dậu cần có biện pháp làm giảm hàm lượng mimosine ( như xử lý nhiệt trên 70oC , nhúng trong nước qua đêm, phun dung dịch sun phát sắt II…) và khống chế lượng keo dậu chỉ chiếm < 30% khẩu phần.

Cây chè khổng lồ

cây chè khổng lồ

Đây là cây lâu năm, ừa độ ẩm, chịu được bóng râm và có thể phát triển quanh năm. Thân mọc thẳng, có nhiều mấu lồi. Lá có màu nâu sẫm, giòn và hơi ráp. Năng suất chất xanh đạt 70 – 80 tấn/ha/năm.

Kỹ thuật trồng:

  • Thời vụ trồng : Ươm cây con vào cuối tháng giêng và trồng ra ruộng vào tháng 3 hoặc ươm cây con vào tháng 8 và trồng vào cuối tháng 9.
  • Cách trồng và chăm sóc : Có thể trồng chè khổng lồ trên chân ruộng và chuẩn bị đất như trồng các loại cỏ khác; trồng với mật độ 4 cây trên 1 m2 ( khoảng cách 50 cm x 50 cm). Cũng có thể trồng chè khổng lồ trong vườn nhà, dọc đường đi, bờ ao…
  • Hoặc sử dụng thân cây để giâm và ươm cây giống : cắt những đoạn thân cây dài khoảng 20 cm , có ít nhất hai đốt ( một đốt vùi trong đất sẽ là nơi ra rễ, một đốt trên mặt đất sẽ là nơi ra lá) và vùi vào đất ẩm, chỗ râm mát. Sau khoảng 15 – 20 ngày thì mầm non xuất hiện và có thể đem trồng.

Thu hoạch và sử dụng

Thu hoạch lứa đầu 120 ngày sau khi trồng và các lứa tileeps theo sau khoảng 90 ngày. Khi cắt nên chừa lại 3 – 4 cm trên đoạn tái sinh.

Sau mỗi lần cắt cần làm sạch cỏ dại và bón phân urê, với lượng 80 – 100kg/ ha. Vào đầu mùa xuân hàng năm nên bón thêm phân hữu cơ.

Cây có thể được sử dụng ở dạng tươi làm thức ăn cho dê.

 Bảo quản, chế biến thức ăn nuôi dê

Phơi khô
  • Có thể phơi khô cỏ, lá sắn, lá keo dậu… Đối với cỏ, thời gian thu hoạch để làm cỏ khô tốt nhất là từ tháng 7 đến tháng 9, khi cỏ mới ra hoa, sản lượng và thành phần, giá trị dinh dưỡng cao.
  • Phải chú ý theo dõi diễn biến thời tiết, bố trí đủ nhân lực, phương tiện thu cắt, vận chuyển và cất giữ.
  • Sauk hi thu cắt thức ăn thô xanh tiến hành phơi ngay, thường xuyên đảo để khô đều và nhanh. Không phơi quá nắng để hạn chế tổn thất các dinh dưỡng, nhất là đối với vitamin.
  • Sau khi đã khô, cho vào bao tải hoặc đánh thành đống để bảo quản. Lưu ý nén chặt và che mưa. Nếu có điều kiện thì xây dựng nhà kho dự trữ, bảo quản.
Ủ rơm với urê
  • Tỷ lệ : cứ 1.000 kg rơm khô ủ với 40kg urê pha trong 800 – 1.000 lít nước.
  • Hố ủ: Xây hố ủ kiểu hai vách đối diện nhau, trên nền xi măng, dung dịch tùy theo lượng rơm cần ủ.
  • Cách ủ : Pha urê vào nước theo tỷ lệ trên, lưu ý khuấy đều cho urê tan hết; Trải rơm theo các lớp dầy 20 cm, cứ sau mỗi lớp dùng ôdoa tưới nước urê sao cho ướt đều rơm; Lấy cào đảo qua đảo lại và dùng chân dậm nén cho chặt; Cuối cùng, dùng một tấm ni – lông phủ lên miệng hố sao cho thật kín để nước mưa không lọt vào và khí ammoniac bên trong không bay ra.
  • Sử dụng : sau khi ủ 7 – 10 ngày có thể lấy rơm ra cho dê ăn. Lấy lượng vừa phải theo nhu cầu từng bữa. Lấy xong lại đậy kín hố.

Lúc đầu có thể dê không quen ăn. Cần tập cho dê ăn như sau : cho dê ăn rơm vảy với nước, sau đó cho ăn một tí rơm ủ với urê, rồ tăng dần lên.

Ủ chua một số loại thức ăn thô xanh
cỏ sau khi băm ủ chua
cỏ sau khi băm ủ chua

Ủ chua là biện pháp bảo quản, dự trữ thức ăn thô xanh thống qua quá trình lên men yếm khí.

Nguyên tắc và yêu cầu chung trong ủ chua:

Phải có một hố ủ sạch sẽ, đảm bảo không cho nước, không khí ngấm, lọt vào hố. Hố ủ có thể là loại xây bằng gạch, có thể là hố đào trong đất, có thể là thùng phi, túi chất dẻo.

  • Thức ăn đem ủ phải có chất lượng tốt, tươi, không thối, mốc, không lẫn các tạp chất. Phải đảm bảo độ ẩm của thức ăn trước khi chất vào hố khoảng 65 – 70 %. Cũng có thể phải cho thêm gỉ mật đường hoặc một số chất bổ sung khác, tùy theo loại thức ăn.
  • Thức ăn chất vào hố phải được nén chặt, nhất là các góc hố. Chất vào càng nhanh càng tốt và sau đó phải đóng hố ngay.
  • Sau khoảng 3 tuần ủ có thể sử dụng thức ăn ủ chua để nuô dê nhưng một khi đã mở hố phải dùng liên tục cho đến khi hết và sau mỗi lần lấy xong phải đóng kín hố lại.

Ủ chua cây ngô sau khi thu bắp:

Loại cây ngô sau khi thu bắp non: cắt ngô vào ngày thu bắp, phơi tái một hoặc hai ngày.

  • Loại cây ngô sau khi thu bắp khô: cắt ngay khi thu bắp khô, không để chậm hơn và không cần phơi thêm. Loại bỏ bớt phần gốc già, cứng và các lá khô, già.
  • Băm thái nhỏ (dài 3 – 6cm). Chất vào hố theo từng lớp dày 20 – 30 cm. Sau mỗi lớp cần dậm nén chặt ngay.
  • Phải cho thêm rỉ mật đường (10 lít rỉ mật đường cho một hố ủ 1,5m3). Dùng ôdoa tưới đều lượng rỉ mật đường này theo từng lớp thức ăn trước khi dậm nến

Ủ chua cỏ:

Có thể ủ chua riêng từng loại cỏ hoặc hỗn hợp nhiều loại cỏ với nhau. Nếu cắt cỏ vào giai đoạn trước khi ra hoa.

  • Băm thái nhỏ (dài 3 – 6cm), phơi tái. Cách ủ như đối với cây ngô sau thu bắp nhưng lượng rỉ mật đường ít hơn ( 5 lít rỉ mật đương cho hố ủ 1,5m3).